25.000 người chết vì ung thư gan mỗi năm, cách nào phát hiện sớm?

Siêu âm ổ bụng, xét nghiệm máu là hai phương pháp đơn giản đang được áp dụng hiện nay để chẩn đoán, phát hiện sớm ung thư gan. Cụ thể hiệu quả ra sao?

Theo thống kê, tỉ lệ mắc ung thư gan của Việt Nam xếp thứ 4 thế giới, trung bình cứ 100.000 người dân có hơn 23 người mắc bệnh. Ung thư gan là loại ung thư phổ biến hàng đầu với hơn 25.000 ca mắc mới (chiếm 15,4% trong tổng số ca ung thư mới phát hiện mỗi năm).

Đáng lưu ý, cũng xấp xỉ 25.000 ca tử vong do ung thư gan mỗi năm tại nước ta cho thấy đây là loại ung thư có tỉ lệ tử vong hàng đầu, tỉ lệ chữa khỏi rất thấp.

25-000-nguoi-chet-vi-ung-thu-gan-moi-nam-cach-nao-phat-hien-som

TS Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa Ngoại gan mật tụy, Bệnh viện K cho biết có những nguyên nhân chính gây ung thư gan, gồm: Xơ gan, Viêm gan B và viêm gan C, Rượu bia, bệnh Thừa sắt (hemochromatosis)...

Tuy nhiên, TS Thế Anh cho rằng ung thư gan là loại ung thư không dễ chẩn đoán sớm vì ở giai đoạn sớm biểu hiện của bệnh thường mơ hồ, người bệnh ít chú ý tới. Trong đó có 80% ung thư gan là dạng ung thư biểu mô tế bào gan nguyên phát (chiếm 80%).

Theo PGS.TS Phạm Cẩm Phương, Giám đốc Trung tâm y học hạt nhân và u bướu, Bệnh viện Bạch Mai, có khoảng 2-10% bệnh nhân viêm gan B chuyển biến thành xơ gan và ung thư gan. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến ung thư gan.

Các chuyên gia nhận định nếu không được điều trị, viêm gan B sẽ diễn tiến thành xơ gan, ung thư gan sau 3-5 năm hoặc 10-20 năm, tuỳ trường hợp. Theo các số liệu thống kê, trên 80% bệnh nhân ung thư gan là do tiến triển từ viêm gan virus B.


Những trường hợp có nguy cơ nhiễm virus viêm gan cao như: dùng chung kim ống tiêm, lây nhiễm qua đường tình dục, truyền máu, từ mẹ sang con, kim đâm, dao cạo bẩn hoặc xăm thẩm mỹ tại những nơi không đảm bảo chất lượng.

Tuổi thọ của bệnh nhân ung thư gan phụ thuộc vào thời điểm bệnh được chẩn đoán và vào các lựa chọn điều trị được thực hiện.

Những phương pháp chẩn đoán, phát hiện ung thư gan sớm

Theo PGS Cẩm Phương, hai phương pháp hiện đang áp dụng để sàng lọc, chẩn đoán sớm ung thư gan là xét nghiệm máu và siêu âm ổ bụng. Với phương pháp xét nghiệm máu, do đây là biện pháp sàng lọc, không chính xác tuyệt đối, nhưng cũng có một tỉ lệ chính xác nhất định.

Cụ thể, xét nghiệm máu: Alpha - fetoprotein (AFP), có thể tăng lên ở 70% bệnh nhân ung thư gan nhưng cũng có thể bình thường. Khi AFP tăng cao là dấu hiệu nghi ngờ lớn với ung thư gan. Tuy nhiên, AFP có thể tăng trong xơ gan và viêm gan mạn. Ngoài AFP, xét nghiệm khác cũng có thể được dùng để phát hiện ung thư gan là DCP hay còn gọi là PIVKA - II cũng có độ đặc hiệu cao trong chẩn đoán ung thư gan.

Với phương pháp siêu âm ổ bụng, có thể phát hiện những khối u từ 2cm. Nếu phát hiện sớm, điều trị tích cực, PGS Phương cho rằng bệnh nhân có thể sống thêm vài năm kể từ khi được phát hiện bệnh.

Siêu âm ung thư gan là phương pháp hàng đầu trong chẩn đoán hình ảnh ở bệnh nhân ung thư gan, được áp dụng nhiều vì có chi phí thấp, thực hiện đơn giản, không gây tác dụng phụ và cho tỷ lệ chẩn đoán chính xác cao (có thể phát hiện khối u gan kích thước trên 1cm). Siêu âm cho biết vị trí và kích thước khối u. Đồng thời, siêu âm cũng giúp hướng dẫn cho các biện pháp điều trị ung thư gan như cắt gan, tiêm diệt u qua da,... Tuy nhiên, siêu âm không cho biết bản chất khối u.

Bên cạnh đó, sinh thiết gan cũng là biện pháp chẩn đoán ung thư gan nhưng không cần thiết trong mọi trường hợp, đặc biệt là khi các dấu ấn miễn dịch và chẩn đoán hình ảnh là rõ ràng cho việc chẩn đoán ung thư gan. Sinh thiết gan có những rủi ro nhất định: nhiễm trùng, chảy máu, gieo rắc tế bào ung thư theo đường đi của kim sinh thiết (1 - 3% trường hợp).

Nếu sinh thiết dương tính sẽ cho chẩn đoán xác định ung thư gan. Nếu sinh thiết âm tính sẽ khuyến cáo thăm khám lại bằng chẩn đoán hình ảnh, thậm chí sinh thiết lại sau khoảng thời gian 2 - 3 tháng.

Chụp cắt lớp vi tính đa dãy có tiêm thuốc cản quang hoặc cộng hưởng từ (MRI) có dùng thuốc đối quang từ có thể được chỉ định để đánh giá động học của u gan. Các phương pháp này cho phép đánh giá tương đối chính xác tính chất của u gan cũng như số lượng, vị trí, liên quan của u gan với các thành phần quan trọng khác trong gan (mạch máu, đường mật). Ngoài ra, còn giúp đánh giá tình trạng di căn tại gan, ngoài gan của ung thư gan. Tuy nhiên, với các tổn thương kích thước nhỏ (dưới 1cm) thường khó đánh giá tính chất.

Theo GiaDinh